Skip to main content

Trong Một khúc ca xuân, nhà thư Tố Hữu đã tâm sự với chúng ta:  Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn?   Hãy tìm lời giải đáp trong thơ, văn cách mạng từ năm 1945  đến nay.

Trong Một khúc ca xuân, nhà thư Tố Hữu đã tâm sự với chúng ta:  Ôi! Sống đẹp là thế nào

Câu hỏi

Nhận biết

Trong Một khúc ca xuân, nhà thư Tố Hữu đã tâm sự với chúng ta:  Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn?   Hãy tìm lời giải đáp trong thơ, văn cách mạng từ năm 1945  đến nay.


Đáp án đúng:

Lời giải của Luyện Tập 365

  Trên báo nhân dân số Tết 1978, nhà thơ Tố Hữu cho đăng một bài thơ dài: Một khúc ca xuân viết từ những ngày cuối tháng 12 năm trước. Tác giả nêu lên những thắng lợi cùng những khó khăn cả dân tộc đã phải trải qua trong những tháng năm chiến tranh. Đặc biệt trong bài thơ, tác giả làm nổi bật lên những tấm gương sáng của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng Việt Nam, những con người tận tụy hi sinh trong chiến đấu và sản xuất để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên cả hai miền Nam, Bắc. Toàn bộ chủ đề bài thơ tập trung vào bốn câu thơ cô đọng:

Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn?

Bữa cơm dù dưa muối đầy vơi

Chân lý chẳng cần chi đổi bán

Tình thương vô hạn để cho đời

Chỉ với bốn câu thơ thôi, tác giả đã đặt ra những vấn đề lớn có sức khơi gợi sâu xa trong suy nghĩ của mỗi chúng ta về quan niệm sống, lý tưởng chiến đấu, đồng thời cũng là quan niệm về hạnh phúc cuộc đời, về lòng kiên trì Cách mạng để thực hiện lý tưởng ấy trên đất nước ta. Ở ngay đầu bài thơ, tác giả đã:

Tự hỏi mình sau trước

Cho cuộc đời, Tổ quốc thương yêu

Ta đã làm gì ? Và được bao nhiêu?

Kế đó, tác giả nêu lên một chân lý hết sức giản dị nhưng tình ý sâu sắc vô cùng, nó là quan niệm hết sức mới về hạnh phúc, về lẽ sống ở trên đời:

Nếu là con chim, chiếc lá

Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không trả

Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình ?

Trong bài tiểu luận nổi tiếng “Hôm qua, hôm nay và ngày mai" (tháng 1 năm 1977), nhà thơ Tố Hữu đã từng nói đến vấn đề, vấn đề mà bài thơ Một khúc ca xuân sau đó gần như một lần nữa lại xoáy vào sâu sắc hơn và giàu hình tượng thi ca. Trong bài tiểu luận ấy, tác giả viết: “Sống là cho hay là nhận?". Ở bài thơ thì tác giả đặt vấn đề ngay: “Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình” và thế nào là hạnh phúc của con người? Tác giả dẫn chứng trường hợp mẹ Suốt:

Giữa bom rơi, đạn nổ

Giữa sóng lớn, gió to

Ngực huân chương, mẹ vẫn chèo đò

Không chịu nghĩ, ai ngăn cứ nói

Tui già rồi có chết khỏi lo

Bọn trẻ sống còn tay bắn giỏi

Tất nhiên là bằng văn xuôi, chứ không phải bằng thơ như đoạn trích trong Một khúc ca xuân trên đây. Tác giả còn nói đến quan niệm về hạnh phúc của một cô thanh niên xung phong ở lưng đèo Mụ Giạ, ngày đêm mở đường ra tiền tuvến dưới bom B.52. Một bạn nước ngoài hết lời ca ngợi các cô “đã hi sinh tuổi thanh xuân cho Tổ quốc", thì cô đã trả lời: “Báo cáo các đồng chí, được phục vụ cho Tổ quốc là vinh dự nhất ạ”. Và tác giả kết luận: “Thế đó, hạnh phúc là cho. Cho là vinh dự nhất, cho đâu phải là mất mát? Làm Cách mạng mà bị mất đầu thì hạnh phúc là ở chỗ cho cái đầu. Chủ nghĩa ích kỷ không bao giờ làm ra hạnh phúc được. Cái mà người ích kỷ tưởng là hạnh phúc chẳng chịu là sự tùy tiện". Và tác giả khẳng định: Cuộc sống đẹp nhất chính là cuộc sống “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người". Đó cũng chính là câu trả lời cho vấn đề tác giả đặt ra trong bài thơ Một khúc ca xuân:

Ôi! Sống đẹp là thế nào, hỡi bạn?

Cụ thể hơn, tác giả còn bắt đầu từ câu chuyện thường ngày đối với mỗi một con người chúng ta, và đối với từng bếp lửa gia đình:

Bữa cơm dù dưa muối đầy vơi

Ở đây, tác giả muốn nói đến lối sống, cách sống. Còn mức sống là chuyện khác, tác giả lưu ý chúng ta tuyệt đối không nên lẫn lộn. Như chúng ta đều biết, cách sống không nhất thiết tùy thuộc vào mức sống. Ở nước ta, trong khi chưa có được một mức sống đầy đủ, chúng ta vẫn có thể tạo ra một cách sống cao đẹp: cách sống cộng sản chủ nghĩa. Qua gần bốn mươi năm chiến đấu, cách sống cộng sản chủ nghĩa đã trở thành cách sống phổ biến của toàn dân tộc về vấn đề mức sống, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: "Thử hỏi, trước mắt trong điều kiện nước ta, chúng ta có thể chạy đua với các nước tư bản chủ nghĩa về chỉ tiêu tính theo đầu người hằng năm bao nhiêu điện, bao nhiêu than, bao nhiêu thóc, bao nhiêu vải, bao nhiêu kilogram gạo, bao nliiêu kilogram thịt và bao nhiêu cà phê...được không". Và Chủ tịch trả lời: “Không thể được. Vì nếu chỉ chạy theo vật chất thì quả là một sự bế tắc và ngu ngốc". Chúng ta phải làm thế nào để từng bước có đời sống vật chất, đời sống văn hóa tốt đẹp, thật sự tốt đẹp, đem lại hạnh phúc cho mọi người. Đây là bài toán lớn nhất của thời đại này. Chúng ta hết sức coi trọng việc không ngừng nâng cao từng bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân trên cơ sở kỹ thuật ngày càng phát triển, đồng thời chúng ta phải nhận rõ rằng: Giá trị quý nhất của xã hội, của con người không chỉ là vật chất mà chính là một đời sống có văn hóa, tinh thần và tình cảm cao đẹp. Dân tộc Việt Nam ta có truyền thông coi trọng phẩm chất, coi trọng những giá trị đạo đức, giá trị tinh thần của con người. Chính vì vậy mà, '‘bữa cơm dù dưa muối đầy vơi", mức sống vật chất có thấp đấy, nhưng chúng ta, dân tộc Việt Nam la vẫn có thể khẳng định như nhà thơ Tố Hữu đã khẳng định trong thơ mình: “Chân lý chẳng cần chi đổi bún” vì mục đích cao cả mà mình đang theo đuổi, vì một quan niệm sống tốt đẹp mà mình hằng ấp ủ: “Tình thương vô hạn để cho đời". Đó không chỉ là quan niệm về lẽ sống, về hạnh phúc của từng cá nhân mà còn là của cả dân tộc. Đầu những năm sáu mươi, chính Tố Hữu trong bài thơ Miền Nam đã từng nói lên ý nghĩa lớn lao đó của cuộc chiến đấu chống Mỹ của nhân dân ta đối với toàn thể loài người:

Có phải, hỡi miền Nam anh dũng khi ta đứng lên cầm khẩu súng Ta vì ta, ba chục triệu người Cũng vì ba ngàn triệu trên đời Đó là niềm tự hào chính đáng của dân tộc ta, và của mỗi người dân Việt Nam. Suốt mấy chục năm qua, thế giới có biết bao đổi thay có lúc thuận chiều có lợi cho cách mạng, có lúc quanh co phức tạp. Nhưng ngay cả những lúc:

Chợ trời thật giả đâu chân lý Hàng hóa lương tâm cũng thiếu thừa chúng ta vẫn giữ ngọn cờ, chân lý vẫn không hề đổi bán. Đây là lẽ sống của cả dân tộc. Lẽ sống lớn ấy thấm vào từng con người, làm nên lý tưởng và lẽ sống của mỗi cá nhân. Trong suốt mất chục năm chiến đâu và xây dựng Tổ quốc, hình ảnh những con người sông có lý iưởng, vì chân lý của thời đại “Không có gì quý hơn độc lập, tự do" đã từ trong hiện thực vĩ đại của đời sống bước vào văn học qua các giai đoạn cách mạng.

Trước hết phải nói đến hình ảnh vị lãnh tụ vĩ đại, người Bác thân yêu chúng ta. Bác đã từng nói: Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có được cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Bác nào có mong muốn gì cho hạnh phúc riêng mình. Tất cả cuộc đời của Bác là vì nước, vì dân. Cho đến phút cuối cùng, trước khi đi xa... Bác vẫn uđể lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thiếu niên và nhi đồng” (Di chúc của Hồ Chủ tịch). Thơ Tố Hữu sau này đã nói lên một cách rất nghệ thuật hình ảnh cao đẹp ấy:

Bác sống như trời đất của ta

Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa

Tự do cho mỗi đời nô lệ

Sữa để em thơ, lụa tặng già

Bác để tình thương cho chúng con

Một đời thanh bạch, chẳng vàng son

Một manh áo vải, hồn muôn trượng,

Hơn tượn đồng phơi những lối mòn Nhiều thế hệ thanh niên chúng ta sống, chiến đấu, lao động theo gương Bác Hồ vĩ đại, mặc dầu khẩu hiệu này mãi đến khi Bác mất mới được nêu lên thành một mệnh đề hoàn chỉnh. Lớp lớp thanh niên hồi đầu Cách mạng tháng Tám “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh ”, tuân theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, đã “thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhút định không chịu làm nô lệ". Những hình tượng anh hùng ấy được ghi lại nổi bật trong các tác phẩm văn học thời kỳ đầu. Sau này, qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bao nhiêu tấm  gương vì nước quên thân, vì nhân dân phục vụ trên các mặt trận chiến đấu và sản xuất được ghi lại trong các tập truyện về các anh hùng:. chiến sĩ thi đua, các gương hi sinh chiến của quân dân ta, và cả trong truyện ngắn và tiểu thuyết như Xung kích của Nguyễn Đình Thi, Vùng mỏ   của Võ Huy Tâm, Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Truyện Tây Bắc của Tô Hoài, và sau đó tiếp tục được thể hiện Irong Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng... Đặc biệt là hình tượng anh hùng Núp cùng dân làng Kông Hoa trong tiểu thuyết Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, đói muối thì đốt tranh lấy than tranh thay muối để sống mà đánh giặc chứ không nghe theo lời địch đánh đổi đầu cán bộ cụ Hồ lấy muối của Tây.

Lớp lớp thanh niên và những tấm gương cao đẹp thuộc nhiều lứa tuổi ở hai miền Nam, Bắc trong những ngày cả nước chống đế quốc Mỹ xâm lược, đã được xây dựng thành những hình tượng nhân vật có xương có thịt, có tâm trạng, có cuộc đời trong nhiều tác phẩm văn học. Đó là Nguyễn Văn Trỗi trong thờ Tố Hữu (Hãy nhớ lấy lời tôi), trong truyện kí Sống như Anh của Trần Đình Vân, trong trường ca Nguyễn Văn Trỗi của Lê Anh Xuân. Đó là chị út Tịch trọng Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi và nhiều nhân vật khác trong Hòn đất của Anh Đức, Về làng, và Mẫn và tôi của Phan Tứ, Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, Rừng u Minh của Trần Hiếu Minh, Dấu chân người lính vù Cửa sông của Nguyễn Minh Châu, Vào lửa và Mặt trận trên cao của Nguyễn Đình Thi, Vùng trời của Hữu Mai, Chiến sĩ và Đường trong mây của Nguyễn Khải, Biển gọi của Hồ Phương... Những nhân vật ấy, trong bất kỳ hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn nào, trong bất kỳ tình huống nguy hiểm, thử thách nào cũng nêu cao lý tưởng chiến đấu của mình, không hoang mang dao động. Họ bình tĩnh tin vào cái đích đi tới. Đánh Mỹ, chị út Tích tuyên bố: “Còn cái lai quần cũng đánh!". Nguyễn Văn Trỗi lúc cần đã bán cả nhẫn cưới kỉ niệm của vợ, để lấy tiền mua dây điện chuẩn bị cho việc đặt mìn dưới chân cầu Công Lý để giết Mắc - Namara. Hành động tuyệt đẹp này đã được nhà thơ Chế Lan Viên dựng lại trong những vần thơ giàu suy tưởng:

Chiếc nhẫn trên tay anh Trỗi

Không sống đời bình yên những chiếc nhẫn thường

Không ở lâu cùng anh để in một dấu hằn

Một ngấn hạnh phúc trên tay, dù ngắn vội,

Ra đi đổi lấy một dây bom ở dưới chân cầu

Chiếc nhẫn bây giờ đâu?

                                     Bây giờ đâu                                             

Còn bao nhiêu tấm gương khác đặt lợi ích cách mạng lên trên hết, trước hết không hề suy tính, so đo hơn thiệt của cá nhân mình. Trong nhà tù của Mỹ - Diệm, sau khi đã dùng đủ thứ đòn tra tấn tàn bạo đốì với người tù chúng lại giở trò mua chuộc, dụ dỗ các đồng chí của ta. Nauvễn Đức Thuận một trong những tấm gương bất khuất, đã nói thẳng vào mặt chúng: “Với chúng tôi, không phải chỉ cỏ vấn đề sống chết và hạnh phúc cá nhân là những điều chúng tôi rất quý trọng, chúng tôi còn có sự nghiệp cách mạng, còn có lý tưởng cách mạng, còn có phẩm chất của con người mà chúng tôi coi cao hơn tất cả

Ôi! Sống đẹp là thế nào, hỡi các bạn?

Câu trả lời của Nguyễn Đức Thuận giữa ngục tù của họn Mỹ - Diệm là như thế, ở đó hiếm có những bữa cơm dù chỉ là “dưa muối đầy vơi". Chỉ có đòn tra khảo, cơm hẩm, cá dòi, có khi đến cơm hẩm cá dòi cũng không có mà ăn. Người tù ở  đây phải uống nước phân để mà sống, nuốt chửng chuột mới đẻ trong hang, thạch sùng trên vách, hút từng con ốc sên nhỏ, từng hạt đỗ để mà sống. Sống không phải là cho cá nhân mình, mà sống để cho chân lý cách mạng chiến thắng. Trong những hoàn cảnh gay go quyết liệt như thế, những con người cộng sản đã sống đẹp biết bao. Còn bọn đế quốc, bọn tay sai bán nước, từ con người - thú cao cấp đến con người - thú hạ cấp, chúng tôn thờ một cái triết lý sống - đó là chủ nghĩa “đớp". Đối với chúng, “Chẳng có lý tưởng, chẳng Tổ quốc, chẳng đồng bào gì cả". Thật là khác xa một vực mội trời, như ánh sáng và bóng tối, trắng và đen. Cuối cùng, người thắng trận là chúng ta, những người dù trong hoàn cảnh nào cũng tâm niệm:

Chân lý chẳng cần chẳng cần chi đổi bán

Tình thương vô hạn để cho đời 

Đấy là lẽ sống mà bao nhiêu người đã trải qua trong chiến đấu, với rất nhiều khó khăn, thử thách, với vô vàn gian khổ hi sinh.

Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, lẽ sống ấy, lý tưởng sống ấy càng được hun đúc và phát huy, mang khí thế chiến đấu vào trong sản xuất. Điều đó đã được thể hiện sáng rõ trong nhiều tác phẩm văn học có tính tư tưởng sâu sắc và có sức mạnh nghệ thuật. Ta có thể kể hàng loạt nhân vật tích cực,tiêu biểu cho lối sống này. Đó là lớp thanh niên làng Cầu Quay của Đào Vũ trong Cái sân gạch và Vụ lúa chiêm,Tiệp và các đồng chí của anh trong Bão biển của Chu Văn. Biển trong Tầm nhìn xa của Nguyễn Khải, nhiều nhân vật thanh niên trong Đất làng và Buổi sáng của Nguyễn Thị Ngọc Tú... Họ không vun vén cho cá nhân mình mà hếl lòng vì lợi ích của tập thể, họ nêu cao phẩm chất của người cộng sản trong công việc hợp tác xã. Ở lĩnh vực công nghiệp cũng vậy, họ là nhừng người chủ thật sự của nhà máy, hầm mỏ, công trường. Ngay trong thơ, lối sống đẹp ấy cũng thường được thể hiện khá thành công. Cuộc sống còn nhiều khó khăn, đúng như Tố Hữu viết:

Ồ  đâu phải, qua đêm dài lạnh cóng

Mặt trời lên là hết bóng mù sương!

Ôi đâu phải. qua đoạn trường lửa bỏng

Cuộc đời ta bỗng chốc hóa thiên đường

Nhưng cùng Tố Hữu, Chế Lan Viên thật có lý khi nói:

Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả  

Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn

Xác định thái độ của mỗi con người trước cuộc sống ấy như thế nào? Tố Hữu nói một cách cụ thể, giàu hình ảnh và đầy sức cổ vũ:

Yêu biết mấy, những bước đi dáng đứng  

Của đời ta, chập chững buổi đầu tiên

Tập làm chữ, tập làm người xây dựng

Dám vươn mình cai quản lại thiên thiên!

Yêu biết mấy, những con người đi tới

Hai cánh tay như hai cánh bay lên

Ngực dám đón những phong ba dữ dội Chân đạp bùn không sợ các loài sên Thật là những ý thơ vừa mạnh, vừa gợi cảm, mỗi câu thơ đều như họa, như tạc vào lòng người. Còn Chế Lan Viên, với phong cách độc đáo khác, đã liên kết bao nhiêu suy tưởng trong một cấu trúc thô với nhiều từng ngôn ngữ để nói lên một cách sống đẹp cho mọi người:

Không ai có thể ngủ yên trong đời chật

Buổi thủy triều vẫy gọi những vầng trăng

Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt,

Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm...

Tố Hữu thì nói một cách cụ thể hơn, từ cụ thể nâng lên thành khái quát. Tác giả nói với mọi người mà cứ như là đang tâm sự với mình:

Dọn tí phân rơi, nhặt từng ngọn lá

Mỗi hòn than, mẩu sắt, cân ngô

Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ

Những vần thơ tiếp theo của tác giả thật là sảng khoái, nghe như muôn vạn hùng binh đang ào ạt xông lên phía trước cai quản lại thiên nhiên, nắn lại giang sơn gấm vóc. Tự hào thay nếu có mặt chúng ta trong đoàn quân nhiều binh chủng ấy:

Đi ta đi!khai phá rừng hoang

 Hỏi núi non cao, đâu sắt đâu vàng?

Hỏi biển khơi xa, đâu luồng cá chạy?

Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy

Hỏi đâu thác nhảy, cho điện quay chiều?

Những câu hỏi ấy tác giả đặt ra từ Bùi ca mùa xuân 1961. Đến nay sông Đà, sông Chảy trong niềm khát vọng của tác giả đã trở thành những công trình thủy điện nghìn năm xưa không ai từng dám mơ ước. Thế hệ thanh niên chúng ta ngày nay tiếp tục bước chân của cha anh, bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước với muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Vấn  đề quan trọng hàng đầu là chúng ta phải xác định cho mình một lẽ sống đẹp, một lý tưởng cộng sản chủ nghĩa “một người vì mọi người, mọi người vì một người", dù trong hoàn cảnh khó khăn nào cũng không được chùn bước, nản lòng. “Chân lý chẳng cần chi đổi bán", phải quyết tâm hực hiện lý tưởng của Đảng và cũng là lý tưởng của mỗi người dân Việt Nam yêu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó vừa là trách nhiệm, vừa là vinh dự của chúng ta. Chúng ta có thể tự hào, nếu như bản thân mỗi chúng ta đều thấy mình có mặt trong câu thơ của Tố Hữu:

Nếu được làm hạt giống để mùa sau Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa Vui gì hơn làm người lính đi đầu Hạt giống để mùa sau, đó cũng chính là Tình thương vô hạn mà Tố Hữu  gắm trong bốn câu thơ, cô đọng được chọn làm hạt nhân của bài viết này: Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn? phải tự trả lời không chỉ trên câu, chữ mà bằng hành động thực tế, đi bất kỳ nơi đâu mà Tổ quốc cần, để thực hiện lý tưởng cao đẹp của mình với tinh thần khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng, kể cả thù nghèo đói, lạc hậu, địch họa, thiên tai, kẻ thù tư tưởng cá nhân chủ nghĩa ở những góc sâu kín nhất trong lòng người.

Câu hỏi liên quan

  • Một trong những đặc điểm cơ bản của nền văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 là chủ

    Một trong những đặc điểm cơ bản của nền văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 là chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

    Anh/chị hãy nêu những nét chính của đặc điểm trên

  • Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ấn tượng của nhân vật Liên về Hà Nội có những

    Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ấn tượng của nhân vật Liên về Hà Nội có những nét nổi bật nào? Hình ảnh Hà Nội có ý nghĩa gì đối với đời sống tâm hồn Liên? (2,0 điểm)

  • Anh/chị hãy trình bày ngắn gọn về sự đa dạng mà thống nhất của phong cách nghệ thuật Hồ

    Anh/chị hãy trình bày ngắn gọn về sự đa dạng mà thống nhất của phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh.

  • Cảm nhận về vẻđẹp sử thi của hình tượng nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn

    Cảm nhận về vẻđẹp sử thi của hình tượng nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011).

  • Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chij về ý kiến sau:
Một

    Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chij về ý kiến sau:

    Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc chắn sẽ còn đánh mất thêm nhiều thứ quý giá khác nữa.

    (Theo sách Dám thành công - Nhiều tác giả, NXB Trẻ, 2008, tr. 90)

  • Cảm nhận của anh/chị về nhân vật viên quản ngục trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn

    Cảm nhận của anh/chị về nhân vật viên quản ngục trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

  • Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài (phần trích

    Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài (phần trích trong Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục − 2008). 

  • Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp

    Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

    Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

    Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

    Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

    Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

    Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên

    Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

    Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

    Và ởđâu trên khắp ru ộng đồng gò bãi

    Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

    Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

    Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...

    (Đất Nước – Trích trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12 Nâng cao, Tập một, NXB Giáo dục, 2009, tr. 117 - 118)

    Phân tích đoạn thơ trên  để  làm rõ những cảm nhận riêng, độc đáo về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.

  • Như một thứ a-xit vô hình, thói vô trách nhiệm ở mỗi cá nhân có thểăn mòn cả một xã hội.
Từ

    Như một thứ a-xit vô hình, thói vô trách nhiệm ở mỗi cá nhân có thểăn mòn cả một xã hội.

    Từ ý kiến trên, anh/chị hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của mình về tinh thần trách nhiệm và thói vô trách nhiệm của con người trong cuộc sống hiện nay.

  •    Nhìn lại vốn văn hoá dân tộc, nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu có nêu một nhận

        Nhìn lại vốn văn hoá dân tộc, nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu có nêu một nhận xét về lối sống của người Việt Nam truyền thống là: Không ca tụng trí tuệ mà ca tụng sự khôn khéo. Khôn khéo là ăn đi trước, lội nước theo sau, biết thủ thế, giữ mình, gỡđược tình thế khó khăn.                          

    (Theo Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, tr.160-161)

    Từ nhận thức về những mặt tích cực và tiêu cực của lối sống trên, anh/chị hãy bày tỏ quan điểm sống của chính mình (bài viết khoảng 600 từ).