Skip to main content

Phân tích bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Phân tích bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Câu hỏi

Nhận biết

Phân tích bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường


Đáp án đúng:

Lời giải của Luyện Tập 365

1. Hoàng Phú Ngọc Tường sinh năm 1937 ở Huế, quê gốc ở Quảng Trị. Sau khi tốt nghiệp Đại học Sài Gòn, Đại học văn khoa Huế ông về dạy học ở Trường Quốc học Huế, tích cực tham gia phong trào yêu nước chống Mĩ ở Trường Quốc học Huế, tích cực tham gia phong trào yêu nước chống Mĩ - Ngụy. Từ sau 1975, ông chủ yếu hoạt động văn nghệ ở Huế.

Tuy có làm thơ. song thể loại sáng tác chủ yếu của Hoàng Phú Ngọc Tường là thể kí (bút kí, tùy bút). Các tác phẩm chính:

- Văn xuôi: Ngôi sao trên đỉnh Phú Văn Lâu (1971); Rất nhiều ánh lửa (1979); Ai đã đặt tên cho dòng sông (1986); Hoa trái quanh tôi (1995); Ngọn núi ảo ảnh (1999)...

- Thơ: Những dấu chân qua thành phố (1976); Người hái phù dung (1992).

Văn xuôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trí

tình và chính luận, hướng tới khám phá chiều sâu văn hóa của đối tượng. Bởi vậy tùy bút, bút kí của ông vừa giàu chất trí tuệ vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin về văn hóa, lịch sử rất phong phú.

2.Bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? Được Hoàng Phủ Ngọc Tường hoàn thành ở Huế ngày 4-1-1981 và được in trong tập sách cùng tên. Tập bút kí gồm 8 bài kí, thể hiện tình yêu sâu sắc đối với thiên nhiên đất nước, với truyền thông văn hóa, lịch sử lâu đời của dân tộc. Tác phẩm được thể hiện bằng một ngòi bút với những lời văn thật đẹp, thật sang.

Ai đã đặt tên cho dòng sông? Là bài kí đầy chất thơ, ca ngợi con sông Hương và cảnh vật sông Hương - con sông gắn bó với lịch sử, văn hóa của Huế và cũng là của dân tộc.

Vẻ đẹp đậm nét nhất của sông Hương thơ mộng trữ tình. Trước khi dạo bước vào thành phố Huế, nó đi giữa lòng Trường Sơn như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại;khi đi ra khỏi rừng sông Hương nhanh chóng mang vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ, dịu dàng và say đắm - sắc nước xanh thẳm mềm như một tấm lụa, uốn mình theo những đường cong, mềm như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu; sông Hương đi qua lòng thành phố Huế thật chậm cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh và trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy sông Hương đã trở thành một tài nữ đánh đàn lúc đêm đã khuya. Trước khi rời kinh thành về biển cả, sông Hương như người con gái dùng dằng chia tay người yêu với bao nỗi vương vấn và cả một chút lẳng lơ kín đáo...

Không chỉ lấp lánh vẻ đẹp thơ mộng, sông Hương còn soi bóng lịch sử hào hùng, oanh liệt và bi tráng của xứ Huế - của đất nước qua chiều dài thời gian: nó là dòng sông biên thùy của đất nước các vua Hùng; nó là Linh Giang chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại; nó vẻ vang soi bóng Kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng đẫm máu của những cuộc khởi nghĩa suốt thế kỉ XIX; nó đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám với những chiến công rung chuyển.

Sông Hương còn được tác giả nhìn nhận như người mẹ phù sa của một vùng văn học xứ sở. Sông Hương gắn liền với bao thành quách trầm mặc; là nơi sinh thành toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế; là ngọn nguồn và môi trường nuôi dưỡng để giọng hò dân gian vang vọng... Với vẻ đẹp trữ tình, sông Hương đã thành dòng sông thi ca của dân tộc. Nó trở nên bất tận và không bao giờ tự lặp lại mình trong nguồn cảm hứng của các nghệ sĩ: từ xanh biếc thường ngày nó đã trở thành dòng sông trắng - lá cây xanh trong cái nhìn của Tản Đà; từ tha thướt mơ màng nó chợt hùng tráng lên như kiếm dựng trời xa trong khí phách của Cao Bá Quát: từ nỗi quan hoài trong hồn thơ của Bà Huyện Thanh quan nó đột ngột khởi thành sức mạnh phục sinh trong thơ Tố Hữu. Đặc biệt tác giả còn nhận ra cái âm hưởng sâu thẳm của Huế, của sông Hương trên mỗi trang Kiều: dòng sông đáy nước in trời và nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu, những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết Sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều...

Và 1 một chiều sâu bài kí cho thấy dòng sông Hương đã in bóng vẻ đẹp tâm hồn của con người vùng đất nước cổ kính này. Dòng Hương giang thơ mộng gắn với bề dày lịch sử, văn hóa Huế chính là tấm gương phản chiếu tâm hồn con người xứ Huế: dịu dàng, sâu lắng, kín đáo mà cũng thật bất khuất kiên cường; rất đa tình mà cũng thật chung tình...

Tóm lại, Ai đã đặt tên cho dòng sông? Là một bài ca với một tình yêu say đắm, tự hào của tác giả về thiên nhiên, lịch sử, văn hóa, con người xứ Huế và là cũng là của dân tộc Việt Nam... Tác phẩm là bài ca về vẻ đẹp thơ mộng cũng là của dân tộc Việt Nam... Tác phẩm là bài ca về vẻ đẹp thơ mộng của cảnh sắc thiên nhiên sông Hương và những suy cảm về bề dày lịch sử, bề dày văn hóa, vẻ đẹp tâm hồn con người của xứ Huế.

Bài kí rất giàu chất trí tuệ và chất văn hóa. Tác giả đã vận dụng cái nhìn, kiến thức của nhiều lĩnh vực để khám phá, phản ánh đối tượng như: địa lí, lịch sử, âm nhạc, thơ ca. Đặc biệt bằng góc nhìn văn hóa đa chiều tác giả đã khám phá chiều sâu văn hóa của sông Hương - của xứ Huế.

Tác phẩm sử dụng cao độ nghệ thuật nhân hóa, mĩ lệ hóa, thi vị hóa., mạch văn có sự liên tưởng mạnh mẽ, tư duy khoáng đạt, ngôn ngữ trong sáng, đẹp đẽ...

Bài kí mang đặc điểm của một áng tùy bút bởi hành văn phóng túng, nhân vật chính là cái tôi đầy cảm xúc của tác giả, chất trữ tình đậm đặc.

Câu hỏi liên quan

  • Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài (phần trích

    Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài (phần trích trong Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục − 2008). 

  • Trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam,

    Trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011), ở phần nói về thượng nguồn sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ví vẻ đẹp   của   dòng   sông   này   với   hình  ảnh   hai   người   phụ  nữ,  đó   là   những   hình  ảnh   nào?

    Ý nghĩa của những hình ảnh ấy?

  • Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chij về ý kiến sau:
Một

    Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chij về ý kiến sau:

    Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc chắn sẽ còn đánh mất thêm nhiều thứ quý giá khác nữa.

    (Theo sách Dám thành công - Nhiều tác giả, NXB Trẻ, 2008, tr. 90)

  • Có ý kiến cho rằng: sự nhẫn nhục của nhân vật Từ (Đời thừa - Nam Cao) không đáng trách,

    Có ý kiến cho rằng: sự nhẫn nhục của nhân vật Từ (Đời thừa - Nam Cao) không đáng trách, chỉđáng thương; còn sự nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu) thì vừa đáng thương vừa đáng trách.

    Từ cảm nhận của mình về hai nhân vật này, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.

  • Phân tích vẻ đẹp của hìnnh tượng sông Hương trong tác phẩm Ai đă đặt tên cho ḍng sông?

    Phân tích vẻ đẹp của hìnnh tượng sông Hương trong tác phẩm Ai đă đặt tên cho ḍng sông? của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường (phần trích trong Ngữ văn 12 Nâng cao, Tập một, NXB Giáo dục − 2008). 

  • Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích, người chân chính thì kiên nhẫn lập nê n thành

    Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích, người chân chính thì kiên nhẫn lập nê n thành tựu.

    Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên. (3,0 điểm)

  • Trong đoạn kết truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, nhân vật Huấn Cao đã khuyên

    Trong đoạn kết truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, nhân vật Huấn Cao đã khuyên viên quản ngục điều gì sau khi cho chữ? Câu nói “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”của viên quản ngục có ý nghĩa như thế nào?

  • Biết tự hào về bản thân là cần thiết nhưng biết xấu hổ còn quan trọng hơn.
Hãy viết một

    Biết tự hào về bản thân là cần thiết nhưng biết xấu hổ còn quan trọng hơn.

    Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên.

  • Phân tích nhân vật Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đ́nh của Nguyễn Thi (phần

    Phân tích nhân vật Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đ́nh của Nguyễn Thi (phần trích trong Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục - 2008). 

  • Khi có lỗi, người tử tế thì sẵn sàng nhận lỗi, kẻ ti tiện chỉ tìm cách đổ lỗi.
Hãy viết

    Khi có lỗi, người tử tế thì sẵn sàng nhận lỗi, kẻ ti tiện chỉ tìm cách đổ lỗi.

    Hãy viết một đoạn văn ngắn (khoẳng 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến trên.