Skip to main content

Nội dung bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên và giải thích ý nghĩa nhan đề của bài thơ. Bình giảng khổ thơ được lấy làm đề từ cho bài thơ.

Nội dung bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên và giải thích ý nghĩa nhan đề của bài

Câu hỏi

Nhận biết

Nội dung bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên và giải thích ý nghĩa nhan đề của bài thơ. Bình giảng khổ thơ được lấy làm đề từ cho bài thơ.


Đáp án đúng:

Lời giải của Luyện Tập 365

Bài thơ Tiếng hát con tàu ra đời trong những năm miền Bắc mới được giải phóng vài năm. Khi ấy nhân dân ta đang tiến hành công cuộc hàn gắn các vết thương chiến tranh, xây dựng lại đất nước. Phong trào vận động nhân dân đi xây dựng vùng kinh tế miền Tây Bắc được tuổi trẻ hăng hái tham gia, hưởng ứng nhiệt tình. Lớp thanh niên hồi ấy rất quen thuộc với những câu thơ đầy hứng khởi lãng mạn:

Lứa tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy.

Thì xa xôi biết mấy cũng lên đường.

(Bùi Minh Quốc - Lên miền Tây)

Nhưng bài thơ này không đơn giản là sự tinh hoa, tuyên truyền phục vụ cho một chủ trương chính sách. Với Chế Lan Viên, sự kiện kinh tế - xã hội ấy chỉ là một gợi ý, một điểm xuất phát cho nhà thơ thể hiện khát vọng về với nhân dân, đất nước với những kỉ niệm sâu nặng tình nghĩa của nhân dân trong những năm kháng chiến gian khổ, cũng là tìm về nơi ngọn nguồn của hồn thơ.

Bài thơ có nhan đề là Tiếng hát con tàu. Làm gì có đường tàu và con tàu lên Tây Bắc? Con tàu ở đây là biểu tượng cho khát vọng ra đi, đến với những miền xa xôi, đến với nhân dân đất nước và cũng còn là đến với những ước mơ, những ngọn nguồn của cảm hứng nghệ thuật. Con tàu ở đây chính là tâm hồn nhà thơ. Và Tiếng hát con tàu là tiếng hát hăm hở, say sưa, tràn đầy phấn khởi của một tâm hồn khỏe khoắn, khoáng đạt bộc lộ cái khát vọng ấy của chính mình. Tâm hồn ấy đã có một thời “khép cửa phòng văn hì hục viết” để “nắng trôi đi oan uổng biết bao ngày”, giờ đây đang phá tung sự chật chội của cái lồng cá nhân để dang cánh bay thẳng vào bầu trời nhân dân cao rộng. Đi “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”, cái phút bừng sáng ấy lại biến hồn thơ Chế Lan Viên thành một con tàu. Và người đọc lập tức bị cuốn vào một hơi thở khẩn trương, giục giã, gấp gáp như chính nhịp đi của con tàu. Ngay lời đề từ đã đầy cuống quýt.

Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc.

Khi lòng ta đã hóa những con tàu

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?

Tổ quốc đang vẫy gọi và tâm hồn nhà thơ đang hướng tới cuộc sống của nhân dân. Vậy thì “có riêng gì Tây Bắc” - khi lòng ta đã hóa những con tàu”, nơi nào mà chẳng là Tổ quốc, chẳng có nhân dân? ‘Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?” bởi “Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”. Cái chính là “lòng ta đã hóa những con tàu”, lòng ta muốn hòa vào Tổ quốc, muốn đến với nhân dân. Đó là con tàu - tâm hồn - nhà thơ để nói lên khát vọng của thi sĩ khi lòng ông đã bừng sáng trước cuộc sống lớn của nhân dân: “Cánh thơ tôi thoát khỏi phòng nhỏ bé - Lượn trăm vòng trên Tổ quốc mênh mông” (Chim lượn trăm vòng). Con tàu đó đang “đói những vành trăng”, đang giục giã “gọi anh đi”, đang “mộng tưởng” và mỗi đêm khuya “uống một vầng trăng!” Con tàu của hồn thơ. Một hồn thơ hối hả, náo nức, khát sống.

Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội

Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga

Con tàu ấy đang háo hức trong hành trình đến với nhân dân, thoát khỏi đời riêng nhỏ hẹp, phá bỏ cõi lòng đóng kín. Tiếng hát con tàu là một niềm vui, một nguồn chân cảm dạt dào của một hồn thơ đóng khép đã được nhân dân hồi sinh!

Trong bốn câu thơ đề từ có hai sự đồng nhất: tâm hồn là con tàu và tâm hồn là Tây Bắc. Người đọc không khỏi băn khoăn khi đọc “Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”. Vì sao có hiện tượng này? Đó là do sự trải nghiệm sâu sắc trong cuộc sống và khả năng phát hiện tinh tế của thi sĩ về bản thân mình. Có lần ông viết về Tổ quốc:

Tâm hồn tôi khi Tổ quốc soi vào

Thấy ngàn núi trăm sông diễm lệ...

Lần này, Tây Bắc cũng đến soi vào tâm hồn nhà thơ. Nhìn vào hồn mình, ông bỗng phát hiện ra Tây Bắc đâu chỉ là một miền đất, một vùng quê trên bản đồ đất nước. Tây Bắc đó là những người anh, người em anh dũng chí tình, là bà mẹ “lửa hồng soi tóc bạc - năm con đau, mẹ thức một mùa dài”, là những “bản sương giăng”, những “đèo mây phủ”, những “mùa chiến dịch” với vắt xôi “còn tỏa nhớ mùi hương”... Tây Bắc là chính hồn mình như thi sĩ đã khẳng định trong lời đề từ cũng như trong bài thơ:

Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!

Về với Tây Bắc là về với hồn mình, nỗi mong chờ của Tây Bắc chính là nỗi mong chờ của hồn mình và mẹ yêu thương mà nhà thơ khát khao được gặp lại cũng là Tây Bắc: Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn ta. Vì vậy mà hai sự đồng nhất nói trên đã trở thành một sự thống nhất biện chứng trong hồn thơ Chế Lan Viên. Và lời đề từ là khổ thơ kết tinh, tiêu biểu cho cả bài thơ Tiếng hát con tàu.

Câu hỏi liên quan

  • Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chij về ý kiến sau:
Một

    Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chij về ý kiến sau:

    Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc chắn sẽ còn đánh mất thêm nhiều thứ quý giá khác nữa.

    (Theo sách Dám thành công - Nhiều tác giả, NXB Trẻ, 2008, tr. 90)

  • Có ý kiến cho rằng: sự nhẫn nhục của nhân vật Từ (Đời thừa - Nam Cao) không đáng trách,

    Có ý kiến cho rằng: sự nhẫn nhục của nhân vật Từ (Đời thừa - Nam Cao) không đáng trách, chỉđáng thương; còn sự nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu) thì vừa đáng thương vừa đáng trách.

    Từ cảm nhận của mình về hai nhân vật này, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.

  • Cảm nhận về hai đoạn thơ sau:                    
Sao

    Cảm nhận về hai đoạn thơ sau:                    

    Sao anh không về chơi thôn Vĩ?                    

    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên                    

    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc                    

    Lá trúc che ngang mặt chữ điền.                                      

    (Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử, Ngữ văn 11 Nâng cao, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.46)                           

    Nhà em có một giàn giầu,                     

    Nhà anh có một hàng cau liên phòng.                           

    Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,                      

    Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?                                      

    (Tương tư - Nguyễn Bính, Ngữ văn 11 Nâng cao,  Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.56)

  • Một trong những đặc điểm cơ bản của nền văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 là chủ

    Một trong những đặc điểm cơ bản của nền văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 là chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

    Anh/chị hãy nêu những nét chính của đặc điểm trên

  • Trong đoạn kết truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, nhân vật Huấn Cao đã khuyên

    Trong đoạn kết truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, nhân vật Huấn Cao đã khuyên viên quản ngục điều gì sau khi cho chữ? Câu nói “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”của viên quản ngục có ý nghĩa như thế nào?

  • Hăy viết một bài văn ngắn (khoảng 400 từ) tŕnh bày suy nghĩ của anh/chị về lòng yêu thương

    Hăy viết một bài văn ngắn (khoảng 400 từ) tŕnh bày suy nghĩ của anh/chị về lòng yêu thương con người của tuổi trẻ trong xă hội hiện nay. 

  • Như một thứ a-xit vô hình, thói vô trách nhiệm ở mỗi cá nhân có thểăn mòn cả một xã hội.
Từ

    Như một thứ a-xit vô hình, thói vô trách nhiệm ở mỗi cá nhân có thểăn mòn cả một xã hội.

    Từ ý kiến trên, anh/chị hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của mình về tinh thần trách nhiệm và thói vô trách nhiệm của con người trong cuộc sống hiện nay.

  • Phân tích tình huống truyện trong tác phẩm  Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân.

    Phân tích tình huống truyện trong tác phẩm  Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân.

  • Cảm nhận về vẻđẹp sử thi của hình tượng nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn

    Cảm nhận về vẻđẹp sử thi của hình tượng nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011).

  • Anh/chị hăy viết một bài văn ngắn (không quá 400 từ) phát biểu ý kiến về tác dụng của việc

    Anh/chị hăy viết một bài văn ngắn (không quá 400 từ) phát biểu ý kiến về tác dụng của việc đọc sách.